ASEAN – TRUNG TÂM ĐẦU TƯ, CHẾ BIẾN KHOÁNG SẢN

Trong những năm qua, thị trường khoáng sản của khu vực ASEAN đã và đang mang lại cơ hội mạnh mẽ cho các quốc gia thành viên. Các nước trong khu vực gia tăng đầu tư vào thị trường khoáng sản, sản xuất và xây dựng đang mang lại nguồn lực lớn.

* Nơi tập trung những nhà sản xuất khoáng quy mô thế giới

Trao đổi bên lề Hội nghị Quan chức cấp cao ASEAN về khoáng sản (ASOMM) lần thứ 21 mới đây tại Hà Nội, ông Nguyễn Văn Nguyên – Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam cho biết, ASEAN đang là khu vực phát triển năng động trong lĩnh vực khai khoáng, một số quốc gia có lịch sử lâu đời về sản xuất khoáng sản, trong khi những nước khác lại là các nhà sản xuất mới nổi. Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan là một trong những nhà sản xuất lớn của ASEAN ở mức sản xuất quy mô thế giới.

Indonesia là quốc gia khai thác mỏ dầu khí, thiếc, niken, đồng, vàng và than đá xếp hạng thế giới. Năm 2016, quốc gia này sản xuất 1% dầu khí, 9,5% niken, 3,6% đồng và 2,6% vàng, 18% than đá… trên toàn cầu. Indonesia chiếm 18% sản lượng khai thác thiếc và là nhà sản xuất lớn thứ ba thế giới. Lĩnh vực khoáng sản chiếm 7,2% GDP của Indonesia vào năm 2016 (bao gồm cả từ than đá), 1,4 triệu lao động làm việc trong lĩnh vực này.

Malaysia sản xuất khá nhiều mặt hàng khoáng sản như dầu khí, bôxít, vàng, quặng sắt, mangan, thiếc, thiếc, angtimon, ngoài ra còn các khoáng sản vật liệu xây dựng và khoáng chất công nghiệp, năng lượng như: đất sét, mica, dolomit, caolin-fenspat, , đá vôi, cát silica, cát và sỏi, than đá. Khoáng sản được sản xuất từ các sản phẩm phụ của khai thác thiếc bao gồm ilmenit, monazit, xenotime, rutil, struverit (một khoáng chất niobi-tantali) và zircon cũng như bạc từ khai thác vàng. Các tài nguyên khoáng sản khác như đồng, niken và đá silica, hiện chưa được khai thác. Malaysia cũng có một nhà máy chế biến có ý nghĩa chiến lược đối với các nguyên tố đất hiếm, sử dụng các chất cô đặc từ một mỏ ở Tây Úc.

Philippines nắm giữ một phần tư sản lượng niken của thế giới và 6% tổng trữ lượng niken của thế giới. Philippines cũng là một nhà sản xuất đồng, vàng, nikel, crom, sắt, magan có tiềm năng lớn. Lĩnh vực khai thác đóng góp khoảng 1% vào GDP quốc gia và tạo ra khoảng 240.000 việc làm trực tiếp.

Thái Lan là một trong những nước có tài nguyên quặng:  sắt, đồng, mangan, vàng, bạc, thiếc, vonfram, kẽm và chì, fenspat và thạch cao, muối mỏ (Natri- Kali) hàng đầu thế giới. Là nhà sản xuất đồng cho đến năm 2015 cũng như vàng và bạc cho đến năm 2017. Quốc gia này có triển vọng đối với khoáng sản phân bón, kali. Lĩnh vực khai thác và khai thác đá là một ngành nhỏ nhưng ngày càng có nhiều người sử dụng lao động. Nước này rất có cơ hội tăng sản lượng khai thác khoáng sản.

* Việt Nam được xếp vào nhóm có triển vọng

Ông Nguyễn Văn Nguyên cho biết thêm: Trong nhóm 10 nước ASEAN, Myanmar và Việt Nam được coi là 2 quốc gia sản xuất khoáng sản triển vọng trên thế giới. Myanmar là nước có tài nguyên đá quý lớn trên thế giới và nhà sản xuất thiếc lớn thứ hai. Còn Việt Nam là nhà sản xuất vonfram – bismuth lớn trên thế giới và được đánh giá là có triển vọng về đồng.

Khai thác đá ở Việt Nam

Về trữ lượng,  các khoáng sản Việt Nam được đánh giá là có trữ lượng tầm thế giới gồm: bauxit, vonfram -bitsmut, đồng, graphit, niken, đất hiếm, cát silica, titan- zircon, vonfram, kẽm,đá hoa trắng, và nguyên liệu sản xuất xi măng, ốp lát. Trữ lượng bauxit, đất hiếm được đánh giá lớn hàng đầu thế giới song năng lực sản xuất còn nhỏ. Khai thác và khai thác đá làm vật liệu xây dựng ở Việt Nam ước tính đóng góp hơn 8% GDP của Việt Nam và tạo ra khoảng 240.000 việc làm.

Đối với Myanmar, mặc dù sản lượng khai thác khoáng sản của nước này còn khá nhỏ nhưng đang phát triển nhanh chóng và đóng góp đáng kể vào GDP. Quốc gia này được coi là một nhà sản xuất khoáng sản mới nổi nhanh chóng.

Các mặt hàng khoáng sản do Myanmar sản xuất bao gồm: antimon, nguyên liệu xi măng, than, đồng, florit, đá quí, chì, mangan, khí tự nhiên, niken, dầu mỏ, thiếc, vonfram và kẽm.

CHDCND Lào được coi là một quốc gia có triển vọng về địa chất và sản xuất nhiều loại khoáng sản khác nhau, bao gồm đồng, vàng, bạc, muối mỏ kali, barit, kẽm, sắt, than, chì, antimon, đá cẩm thạch, đá vôi. Sản lượng khoáng sản này tuy nhỏ nhưng đóng góp đáng kể vào GDP quốc gia của CHDCND Lào ở mức trung bình 6% mỗi năm từ năm 2016-2020.

Brunei Darussalam có nguồn tài nguyên khai thác chủ yếu từ dầu và khí đốt, chiếm khoảng 90% lượng hàng hóa xuất khẩu của nước này. Brunei có năng lực và tiềm năng về chế biến khoáng sản nhờ nguồn năng lượng dồi dào, cộng với sản xuất phân bón quy mô lớn (amoniac/urê) và sản xuất hydro sử dụng khí tự nhiên làm nguyên liệu.

* Thương mại khoáng sản thúc đẩy nền kinh tế ASEAN

Singapore đang là quốc gia nhập khẩu một lượng lớn nguyên liệu khoáng sản cho ngành sản xuất của mình. Quốc gia này là trung tâm tinh chế và kinh doanh vàng, và  là chủ sở hữu của các nhà máy tinh chế vàng lớn của Indonesia trong ASEAN. Thương mại khoáng sản đóng vai trò quan trọng đối với Singapore, với các sản phẩm từ khoáng sản chiếm 14% tổng kim ngạch nhập khẩu và 25% kim ngạch xuất khẩu.

Về thương mại trong và ngoài ASEAN, sản xuất khoáng sản đóng góp một phần chính của nền kinh tế nhiều quốc gia thành viên ASEAN. Ví dụ như Indonesia, ngành khai khoáng đã tạo ra gần 40% kim ngạch xuất khẩu từ chế biến và cung cấp quặng.

Đối với CHDCND Lào, khoáng sản và kim loại chiếm hơn một nửa kim ngạch xuất khẩu và hơn một phần tư kim ngạch nhập khẩu. Đối với Malaysia, lĩnh vực khoáng sản và kim loại tạo ra 25% xuất khẩu và 28% nhập khẩu. Các lĩnh vực sản xuất và chế biến khoáng sản của Malaysia tạo ra phần lớn hoạt động thương mại của đất nước. Myanmar, quốc gia có một số thương mại khoáng sản và kim loại tăng trưởng nhanh nhất, tạo ra 30% tổng kim ngạch xuất khẩu trong năm 2018 (trị giá 30,1 triệu USD) và 37% nhập khẩu (trị giá 112,6 triệu USD).

Philippines coi khai khoáng là một lĩnh vực quan trọng, tuy nhiên khoáng sản và kim loại tạo ra một tỷ trọng thương mại nhỏ nhưng vẫn đáng kể, chiếm 9% xuất khẩu và 24% nhập khẩu.

 Dữ liệu từ Giải pháp Thương mại Tích hợp Thế giới (WITS) cho thấy giá trị xuất khẩu khoáng sản của Việt Nam trong năm 2017 là 1,1 tỷ USD và giá trị nhập khẩu ở mức 844 triệu USD….

Với triển vọng phát triển cho hợp tác khoáng sản ASEAN như trên, ASEAN đại diện cho một trung tâm nhu cầu hiện tại và trong tương lai đối với sản xuất khoáng sản. Phó Tổng cục trưởng Nguyễn Văn Nguyên cho rằng Kế hoạch Hành động Hợp tác Khoáng sản ASEAN 2016 – 2025 (AMCAP-III) Giai đoạn 2 (2021 – 2025) vừa được Bộ trưởng các nước ASEAN về khoáng sản thông qua sẽ hướng dẫn hợp tác khoáng sản ASEAN để các quốc gia thành viên cùng hợp tác xây dựng đầu tư về khoáng sản, phát triển ngành khoáng sản, mở rộng thương mại và đảm bảo các phương pháp tiếp cận bền vững đối với phát triển khoáng sản.

Theo: http://www.monre.gov.vn/